Thiết kế và chế tạo Independence (lớp tàu sân bay)

Sự hình thành lớp này là do mối quan tâm của Tổng thống Franklin D. Roosevelt đối với các kế hoạch đóng tàu của Hải quân Mỹ. Vào tháng 8 năm 1941, khi nguy cơ chiến tranh bắt đầu ló dạng, ông đã lưu ý đến việc không có chiếc tàu sân bay hạm đội mới nào có thể sẵn sàng trước năm 1944; và đề nghị phải nhanh chóng cải biến một số tàu tuần dương đang được chế tạo thành tàu sân bay. Việc nghiên cứu tính năng những chiếc tàu sân bay kích cỡ tàu tuần dương đã bộc lộ ra nhiều hạn chế nghiêm trọng, nhưng tình thế nguy cấp sau vụ quân Nhật tấn công Trân Châu Cảng vào tháng 12 năm 1941 cho thấy nhu cầu cần phải có nhiều tàu sân bay càng nhanh càng tốt. Hải quân đã đáp ứng bằng cách đẩy nhanh tiến độ chế tạo các tàu sân bay lớn thuộc lớp Essex, và vào tháng 1 năm 1942, yêu cầu chuyển đổi một tàu tuần dương thuộc lớp Cleveland thành một tàu sân bay hạng nhẹ.

Kế hoạch phát triển cho việc cải biến này tỏ ra có nhiều hứa hẹn hơn mong đợi, và đã có thêm hai chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ khác được tái cấu trúc thành tàu sân bay vào tháng 2, ba chiếc trong tháng 3 và ba chiếc cuối cùng vào tháng 6 năm 1942.

Thiết kế lớp Independence bao gồm cả sàn đáp máy bay cùng sàn chứa máy bay tương đối ngắn và hẹp, với một đảo cấu trúc thượng tầng nhỏ. Để bù trừ cho trọng lượng nặng bên trên, những miếng ghép được bổ sung thêm vào thân tàu tuần dương, khiến cho nó dài hơn thân tàu nguyên thủy 1,5 m (5 ft). Lực lượng không quân phối thuộc ban đầu được dự định có máy bay tiêm kích, máy bay ném bom-tuần tiễu và máy bay ném ngư lôi với chín chiếc mỗi kiểu; sau được định hướng lại gồm khoảng hai tá máy bay tiêm kích và chín máy bay ném ngư lôi.

Đây là những con tàu có khả năng giới hạn, với công dụng chủ yếu là sự có mặt sẵn sàng trước mắt và tốc độ nhanh cần thiết để hoạt động cùng các đội đặc nhiệm tàu sân bay nhanh. Kích thước nhỏ khiến cho đặc tính đi biển khơi kém và tỉ lệ tai nạn máy bay tương đối cao. Việc bảo vệ chúng chỉ ở mức tối thiểu, bom đạn đôi khi phải được cất trong sàn chứa máy bay, một yếu tố góp phần rất lớn vào việc mất chiếc Princeton vào tháng 10 năm 1944.